Thực tế xã hội sôi động suốt thế kỷ XVIII mà cao trào là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, thật sự đó là chất xúc tác mạnh mẽ, là nguồn cảm hứng dồi dào. Khi được cởi trói trong lao động sáng tạo, tình cảm người nghệ sĩ được giải phóng, lý tưởng sáng tạo được nâng cao thì văn học, nghệ thuật được bay bổng thăng hoa.
Hàng năm, tết đến xuân về, đông đảo người dân Hà Nội tự hào kéo nhau về gò Đống Đa để vui chơi và hồi ức tưởng nhớ lại một mùa xuân lịch sử.
Tượng Tuyết Sơn |
Xuân năm Kỷ Dậu (1789) cách đây hơn 200 năm, một tiết xuân rực rỡ chiến công huy hoàng - chỉ trong vòng 5 ngày đêm của đầu xuân năm ấy, dân tộc ta dưới sự lãnh đạo tài tình của Nguyễn Huệ - Quang Trung qua các trận chiến thắng Ngọc Hồi, Khương Thượng, Đống Đa đã quét sạch 20 vạn quân xâm lược Mãn Thanh, giải phóng kinh thành Thăng Long và thống nhất đất nước. Đó là một chiến công vĩ đại và hiển hách vào bậc nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta và là một khúc hùng tráng của bản anh hùng ca bất diệt, một bước tiến huy hoàng của lịch sử Việt Nam.
Sau khi chiến thắng ngoại xâm, thống nhất đất nước, Quang Trung đã quyết tâm phục hồi cải cách nền kinh tế đất nước đã bị suy sụp trước đây và ra sức xây dựng phát triển nền văn hoá dân tộc. Dưới thời Tây Sơn, chúng ta thấy có một Ngô Thời Nhậm, một Phan Huy Ích là những nhà văn chính luận tiêu biểu vừa là nhà chính trị, nhà ngoại giao uyên bác và một Nguyễn Du với một truyện Kiều, một Đoàn Thị Điểm với Chinh Phụ Ngâm, một Nguyễn Gia Thiều với Cung Oán Ngâm Khúc, một Hồ Xuân Hương với dòng thơ châm biếm, trào lộng kiệt tác. Dù các nhà văn, nhà thơ tài hoa lỗi lạc ấy đã sinh ra trước và mất sau thời kỳ Tây Sơn, nhưng họ đã khước từ tư tưởng trung quân của thời đại phong kiến trước đó, đến với chính nghĩa, đứng về phía quần chúng, gắn liền với phong trào nông dân khởi nghĩa Tây Sơn.
Một góc thành Hoàng Đế |
Bên cạnh văn thơ thì nghệ thuật tuồng, chèo, dân ca gắn liền với cuộc sống người dân trong cả nước khắp miền ngược xuôi, vô cùng phong phú, mà quê hương Tây Sơn là một trong những cái nôi của nghệ thuật tuồng, hát bội đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật cuối thế kỷ XVIII.
Theo truyền thuyết thì Nguyễn Huệ rất đam mê hát bội và ông đã từng cùng với tướng lĩnh diễn tuồng và lấy hát bội làm phương tiện giải trí và giáo dục cho quân lính. Song song với văn học, thơ ca, tuồng, chèo, hát bội thì mỹ thuật cũng có chỗ đứng xứng đáng với tầm cỡ lịch sử ở cuối thế kỷ XVIII gắn liền với phong trào khởi nghĩa Tây Sơn. Nhiều người nghệ sĩ nhân dân không tên tuổi nhưng tác phẩm công trình của họ thì tồn tại vĩnh cửu trong không gian và sống mãi với thời gian. Thật vậy, cùng với truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm Khúc, Nhị Độ Mai …thì hơn 20 pho tượng tròn đặt tại chùa Tây Phương là những công trình nghệ thuật điêu khắc tuyệt vời được các nghệ sĩ vô danh sáng tác dưới thời Tây Sơn, xứng đáng với tầm cỡ nghệ thuật thế giới. Trong các pho tượng ở chùa, ngoài nhóm tượng phật A-Di-Đà, Quan Thế Âm và Đại Thế Chí được sáng tác theo một công thức nhất định với lý tưởng phật giáo, còn lại là pho tượng Tuyết Sơn, Kim Cương và nhất là 18 pho tượng các vị Tổ được các nghệ sĩ vô danh sáng tác với tình cảm tự do, phóng khoáng, cởi mở, sinh động và hiện thực.
Nếu Nguyễn Du đã để lại cho chúng ta một Thuý Kiều, một Từ Hải... thì người nghệ sĩ vô danh đã dành cho chúng ta một nụ cười sảng khoái, hồn nhiên, bình dị được gắn liền với vị tổ Da Nan Đề, và muốn có một nụ cười đầy hoan hỷ mà kín đáo và thông minh xin hãy đến với vị tổ Nan Đa. Tìm đến với cái khổ hạnh, chịu đựng trong con người gầy khô, xương xẩu mà đầu óc vẫn tỉnh táo, sáng suốt với vầng trán rộng cao, xin hãy chiêm ngưỡng pho tượng Tuyết Sơn. Còn cái phong lưu, đài các uyền uy được thể hiện ở vị tổ La Hầu La Đa…
Người nghệ sĩ vô danh với lý tưởng nghệ thuật, qua ý niệm Phật giáo, nhuần nhuyễn giữa Đạo và Đời, họ đã tạc ra những pho tượng không thuần tuý là tượng phật mà là những mẫu người ngoài xã hội dưới thời Tây Sơn được nghệ thuật hoá một cách sâu đậm dưới tầm cao của tính nhân văn. Người nghệ sĩ vô danh ấy với tài nghệ của mình đã đưa thế giới đời thường vào cuộc sống nghệ thuật trong không gian Phật giáo và dẫn dắt chúng ta đi vào một thế giới tâm linh rộng mở, cao siêu, uyên thâm mà vẫn bình dị, thực tế chứ không phiêu diêu cực lạc hay trần tục lố lăng.
Bàn về nghệ thuật thời kỳ Tây Sơn, ngoài điêu khắc, còn có hội họa, trang trí, thẩm mỹ môi trường, nhất là môi trường kiến trúc như Thành Hoàng Đế, Phượng Hoàng Trung Đô, Đàn Tế Trời. Năm 982 người Chăm từ Quảng Nam vào đây dựng thành Đồ Bàn, đến năm 1471 thì Thành Đồ Bàn bị phế. Mãi khi Tây Sơn khởi nghĩa, Nguyễn Nhạc xây thành Hoàng Đế trên nền thành Đồ Bàn vào năm 1776. Theo các sách nghiên cứu về Chămpa thì Nguyễn Nhạc là người đã giữ lại các con vật bằng đá trang trí của người Chăm trong thành bố cục Hoàng thành mới của mình.
Đền thờ Quang Trung trên núi Dũng Quyết |
Phượng Hoàng Trung Đô là kinh thành do vua Quang Trung xây dựng bên dòng sông Lam và núi Dũng Quyết; nay là thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, Việt Nam. Thành được xây vào năm 1788. Tại đây vua Quang Trung đã tập trung 10 vạn quân trước khi tiến ra Bắc để giành lại thành Thăng Long lúc bấy giờ đang bị quân Thanh xâm chiếm. Ngôi thành này dự định được xây dựng để thay thế kinh đô Phú Xuân, được đặt tên theo ý nghĩa chim Phượng hoàng, một loài chim trong truyền thuyết. Trung Đô còn có ý nghĩa là kinh đô nằm giữa vùng lãnh thổ do Quang Trung kiểm soát. Năm 1788, Quang Trung giao cho La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp đến vùng Yên Trường thị sát chọn vùng đất giữa núi Quyết và núi con Mèo (Kỳ lân) vì thấy nơi đây là đất “thiêng” hội tụ đầy đủ bốn con vật thiêng mà cha ông đã ngàn đời tôn vinh thờ cúng là: Long - Ly - Quy - Phượng để xây thành gọi là thành Phượng Hoàng Trung Đô. Trong thư gửi Nguyễn Thiếp (3 tháng 10 năm 1789), nhà vua viết: “Trẫm nay đóng đô tại Nghệ An, cùng tiên sinh gần gũi. Rồi đây, Tiên sinh hãy ra đây giúp nhau mà trị nước”. Kinh đô ở Yên Trường tuy còn sơ sài nhưng thực sự đã được xây dựng. Khi xây dựng “Phượng Hoàng trung đô”, Quang Trung có viết chiếu mời Nguyễn Thiếp ra xem đất. Điều trên đã nói lên quan niệm: “Thiên nhân hợp nhất”- con người gắn liền với thiên nhiên trong triết học Phương Đông - ôn lại thời kỳ Tây Sơn, chúng ta thấy cuộc đời của Nguyễn Huệ - Quang Trung, một con người lý tưởng cao cả, sự nghiệp vẻ vang cùng với tài năng, phẩm chất, tính cách độc đáo trung thành rất mực với nhân dân, không lùi bước trước kẻ thù, là một bài ca tuyệt đẹp của người anh hùng áo vải mà Công chúa Ngọc Hân đã ca ngợi :
Mà nay áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước xiết bao công trình
Cuối cùng chúng ta hãy nhìn thẳng vào thực tế sôi động ngoài xã hội suốt thế kỷ XVIII mà cao trào là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Đó là chất xúc tác mạnh mẽ, là nguồn cảm hứng dồi dào trong lao động sáng tạo, tình cảm người nghệ sĩ được giải phóng, lý tưởng sáng tạo được nâng cao và văn học, nghệ thuật được bay bổng thăng hoa.
Nguồn: Người Tây Sơn 2011
Bình luận: